Độc giả:
Ảnh minh họa
Căn cứ Điều 51 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009, 2019, 2022 (sau đây gọi tắt là Luật Sở hữu trí tuệ) thì: Cơ quan quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan có quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan có quyền cấp lại, đổi, huỷ bỏ giấy chứng nhận đó và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định mẫu Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan. Mà cơ quan quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là Cục Bản quyền tác giả.
Như vậy, hiện nay, Cục Bản quyền tác giả có thẩm quyền cấp, cấp lại, đổi, hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan.
Độc giả:
Ảnh minh họa
Căn cứ Điều 52 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009, 2019, 2022 (sau đây gọi tắt là Luật Sở hữu trí tuệ) thì thời hạn cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan: “Trong thời hạn mười lăm ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ, cơ quan quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan có trách nhiệm cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan cho người nộp hồ sơ. Trong trường hợp từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan thì cơ quan quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người nộp hồ sơ.”
Và căn cứ theo quy định tại Khoản 3 Điều 39 về Cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan của Nghị định số 17/2023/NĐ-CP của Chính phủ Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan thì: “3. Trường hợp hồ sơ hợp lệ theo quy định, trong thời hạn 15 ngày làm việc, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan.”
Như vậy, trong thời hạn mười lăm ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ, cơ quan quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan có trách nhiệm cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan cho người nộp hồ sơ.
Độc giả:
Ảnh minh họa
Một điểm quan trọng nữa trong Điều 2 Công ước Berne là cái thường được gọi là “các tác phẩm phái sinh” cũng được bảo hộ. Đây là các tác phẩm bắt nguồn từ các tác phẩm khác đang tồn tại. Ví dụ về các tác phẩm phái sinh bao gồm:
- Bản dịch các tác phẩm sang một ngôn ngữ khác;
- Bản phóng tác tác phẩm, ví dụ viết kịch bản một bộ phim dựa theo một cuốn tiểu thuyết;
- Bản chuyển nhạc, ví dụ một bản nhạc dành cho dàn nhạc mà ban đầu được viết cho piano;
- Các hình thức cải biên khác, ví dụ bản tóm tắt một cuốn tiểu thuyết;
- Các tuyển tập các tác phẩm văn học và nghệ thuật, ví dụ các bộ bách khoa toàn thư, hợp tuyển. Trong trường hợp này, tính nguyên gốc nằm ở sự lựa chọn và cách sắp xếp các nội dung của tác phẩm.
Bạn nên lưu ý rằng trước khi cho ra đời một tác phẩm phái sinh, bạn phải tôn trọng quyền tác giả của tác phẩm gốc. Ví dụ, nếu một tác giả muốn dịch một cuốn tiểu thuyết sang một ngôn ngữ khác thì phải được sự cho phép của chủ sở hữu cuốn tiều thuyết sẽ được dịch. Dịch một tác phẩm mà không có sự cho phép của chủ sở hữu sẽ khiến dịch giả đó rơi vào tình trạng xâm phạm quyền tác giả.
Độc giả:
Ảnh minh họa
Khi áp dụng Công ước Berne tại Việt Nam thì có một số thuận lợi là sự tương thích của một số quy định trong Công ước Berne với quy định về Quyền tác giả ở Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam.
Về đối tượng bảo hộ, Công ước Berne và Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam đều quy định bảo hộ tất cả các tác phẩm trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học. Các đối tượng gồm: Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình, bài giảng, bài phát biểu và bài nói, tác phẩm âm nhạc, tác phẩm sân khấu, tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự, tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm nhiếp ảnh, tác phẩm kiến trúc, bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình khoa học, tác phẩm văn học.
Về tiêu chuẩn bảo hộ, Công ước Berne và Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam cùng quy định bảo hộ các tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ.
Về thời điểm phát sinh Quyền tác giả, cùng theo nguyên tắc bảo hộ tự động Công ước Berne, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam quy định: Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo, không phân biệt đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.
Về thời hạn bảo hộ quyền tác giả, Công ước Berne và Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam cùng quy định, thời hạn bảo hộ quyền tác giả tối thiểu là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả chết (trừ một số tác phẩm như điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là 75 năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên). Và thời hạn bảo hộ đối với các tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ 50 sau năm đồng tác giả cuối cùng chết.
Bên cạnh một số điều khoản phù hợp thì Công ước Berne và luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam có một số điều khoản quy định về Quyền tác giả riêng biệt.
Về quy định quyền của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm, Công ước Berne quy định Quyền tác giả bao gồm quyền tinh thần (moral rights) và quyền kinh tế ( economic rights).
Quyền tinh thần gồm: đứng tên tác giả và quyền phản đối bất kỳ sự xuyên tạc, cắt xén hay sửa đổi tác phẩm, hoặc các hành vi khác đối với tác phẩm mà có thể phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả (Điều 6bis).
Quyền kinh tế bao gồm một số quyền sau đây: Quyền dịch, quyền thực hiện phóng tác tác phẩm, quyền chuyển thể tác phẩm, quyền cải biên, quyền trình diễn công cộng tác phẩm kịch, nhạc kịch, âm nhạc, quyền truyền đạt tới công chúng tác phẩm văn học, quyền truyền đạt tới công chúng cuộc biểu diễn; quyền phát sóng; quyền sao chép.
Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam quy định tại Điều 18: Quyền tác giả đối với tác phẩm quy định tại Luật này bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản.
Quyền nhân thân (Điều 19) quy định: Quyền đặt tên cho tác phẩm, quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng, quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm, quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
Quyền tài sản (Điều 20) quy định: Quyền làm tác phẩm phái sinh, quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng, quyền sao chép tác phẩm, quyền phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm, quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác, quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.
Về thời hạn bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh, Công ước Berne quy định đối với tác phẩm điện ảnh, tác phẩm khuyết danh thì thời hạn này là 50 năm sau khi tác phẩm được công bố đến công chúng một cách hợp pháp; còn đối với tác phẩm nhiếp ảnh, các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng thì thời hạn bảo hộ là 25 năm kể từ khi tác phẩm được thực hiện.
Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam quy định đối với các tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là 75 năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên; Đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn 25 năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là 100 năm, kể từ khi tác phẩm được định hình.
Độc giả:
Ảnh minh họa
Căn cứ Khoản 1 Điều 55 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009, 2019, 2022 (sau đây gọi tắt là Luật Sở hữu trí tuệ) thì: “Trong trường hợp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan bị mất, hư hỏng thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này tiến hành cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ.” Và căn cứ Khoản 1 Điều 40 về Cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan của Nghị định số 17/2023/NĐ-CP của Chính phủ Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan: “Cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan đã được cấp khi bản đã cấp bị mất hoặc rách nát, hư hỏng.”
Như vậy, Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan được cấp đổi trong 2 trường hợp sau:
– Trường hợp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan bị mất;
– Trường hợp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan bị hư hỏng.
Độc giả:
Ảnh minh họa
Thời gian bảo hộ được quy định trong Công ước Berne như sau:
Về nguyên tắc, thời hạn bảo hộ quyền tác giả do pháp luật quốc gia quy định, nhưng theo Công ước Berne thì thời hạn này là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả chết. Thời hạn này được tính từ thời điểm kết thúc năm mà tác giả qua đời. Tuy nhiên, đối với các tác phẩm điện ảnh, các quốc gia thành viên Liên hiệp có thể quy định chấm dứt thời hạn bảo hộ sau 50 năm, tính từ khi tác phẩm được công bố đến công chúng, với sự đồng ý của tác giả, hoặc nếu không có sự công bố như thế trong vòng 50 năm tính từ ngày thực hiện tác phẩm, thì thời hạn bảo hộ chấm dứt 50 năm sau khi tác phẩm được thực hiện.
Tuy nhiên, Công ước Berne quy định trong một số trường hợp, thời hạn bảo hộ không tính theo đời người. Ví dụ, đối với các tác phẩm nhiếp ảnh hay tác phẩm nghệ thuật ứng dụng coi như tác phẩm nghệ thuật, thời hạn bảo hộ tối thiểu là 25 năm kể từ khi tạo ra tác phẩm.
Cần lưu ý là trong bất kỳ trường hợp nào, thời hạn bảo hộ sẽ do luật pháp của nước công bố bảo hộ quy định. Tuy nhiên, nếu luật pháp của nước đó không có những quy định khác thì thời hạn bảo hộ sẽ không quá thời hạn được quy định ở quốc gia gốc của tác phẩm.
Những quy định trên cũng được áp dụng cho tác phẩm đồng tác giả, nhưng thời hạn bảo hộ sau khi chết được tính đến khi tác giả cuối cùng chết.
Độc giả:
Ảnh minh họa
Tác phẩm được bảo hộ quy định trong công ước bao gồm: Tất cả các sản phẩm trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học, bất kỳ được biểu hiện theo phương thức hay dưới hình thức nào, chẳng hạn như sách, tập in nhỏ và các bản viết khác, các bài giảng, bài phát biểu, bài thuyết giáo và các tác phẩm cùng loại; các tác phẩm kịch, hay nhạc kịch, các tác phẩm hoạt cảnh và kịch câm, các bản nhạc có lời hay không lời, các tác phẩm điện ảnh trong đó có các tác phẩm tương ứng được thể hiện bằng một quy trình tương tự quy trình điện ảnh, các tác phẩm đồ họa, hội họa, kiến trúc, điêu khắc, bản khắc, thạch bản; các tác phẩm nhiếp ảnh trong đó có các tác phẩm tương ứng được thể hiện bằng một quy trình tương tự quy trình nhiếp ảnh; các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, minh họa, địa đồ, đồ án, bản phác họa và các tác phẩm thể hiện không gian ba chiều liên quan đến địa lý, địa hình, kiến trúc hay khoa học.
Các tác phẩm được hưởng sự bảo hộ ở tất cả các nước thành viên của Liên hiệp. Sự bảo hộ này dành cho tác giả và những người thừa kế sở hữu quyền tác giả. Sự bảo hộ theo Công ước này không áp dụng cho những tin vặt hàng ngày hay sự kiện, số liệu vụn vặt chỉ mang tính chất thông tin báo chí.
Các nguyên tắc cơ bản của Công ước Berne.
Nguyên tắc đối xử quốc gia: Là nguyên tắc đặt ra cho các quốc gia thành viên thực hiện bảo hộ tác phẩm có nguồn gốc từ các quốc gia thành viên khác, tương tự như sự bảo hộ tác phẩm của công dân quốc gia mình. Sự bảo hộ đó không kém thuận lợi, không thấp hơn sự bảo hộ đối với công dân thuộc quốc gia mình. Nguyên tắc này đặt ra sự bình đẳng trong đối xử với công dân và pháp nhân của các quốc gia thành viên.
Nguyên tắc bảo hộ tự động: Là sự bảo hộ không lệ thuộc vào bất kỳ thủ tục hình thức nào, như là thủ tục đăng ký cấp giấy chứng nhận, việc nộp lưu chiểu, hoặc các thủ tục tương tự khác.
Nguyên tắc bảo hộ độc lập: Là nguyên tắc mà việc công dân và các pháp nhân được hưởng và thực thi các quyền được bảo hộ theo Công ước là độc lập với những gì được hưởng tại nước xuất xứ của tác phẩm.
Công ước quy định sự bảo hộ tối thiểu, ngoài ra Công ước còn có các quy định đặc biệt dành cho các nước đang phát triển.
Độc giả:
Trả lời: Chào bạn, cảm ơn bạn đã quan tâm và chia sẻ thắc mắc của mình gửi về Cục Bản quyền tác giả. Đối với thắc mắc này, chúng tôi xin phép được hỗ trợ giải đáp như sau:
Ảnh minh họa
Tác phẩm báo chí là một trong những loại hình tác phẩm được pháp luật công nhận và bảo hộ quyền tác giả theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019, 2022 (sau đây gọi tắt là Luật Sở hữu trí tuệ). Theo đó, Nghị định số 17/2023/NĐ-CP của Chính phủ Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan cũng có liệt kê cụ thể các loại hình tác phẩm được xem là tác phẩm báo chí tại Khoản 3 Điều 6 như sau:“ Tác phẩm báo chí là tác phẩm có nội dung độc lập và cấu tạo hoàn chỉnh, bao gồm các thể loại: Phóng sự, ghi nhanh, tường thuật, phỏng vấn, phản ánh, điều tra, bình luận, xã luận, chuyên luận, ký báo chí và các thể loại báo chí khác nhằm đăng, phát trên báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử hoặc các phương tiện khác.”
Thời hạn bảo hộ của tác phẩm báo chí được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết đối với các quyền tài sản quy định tại Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ, cụ thể:
– Làm tác phẩm phái sinh;
– Biểu diễn tác phẩm trước công chúng;
– Sao chép tác phẩm;
– Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm;
– Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác.
Và quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm quy định tại khoản 3 Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ.
Bảo hộ vô thời hạn theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ đối với các quyền nhân thân quy định tại Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ, cụ thể:
– Đặt tên cho tác phẩm
– Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng.
– Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
Độc giả:
Ảnh minh họa
Quyền tác giả bao gồm quyền nhân nhân và quyền tài sản với thời hạn bảo hộ khác nhau. Theo quy định tại Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ thời hạn bảo hộ quyền tác giả như sau:
– Đối với quyền nhân thân:
Các quyền nhân thân quy định tại Khoản 1, 2 và 4 Điều 19 của Luật Sở hữu trí tuệ được bảo hộ vô thời hạn, cụ thể:
+ Quyền đặt tên cho tác phẩm;
+ Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;
+ Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc, không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
– Đối với quyền tài sản và quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm:
Các quyền tài sản quy định tại Điều 20 của Luật Sở hữu trí tuệ và quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm quy định tại Khoản 3 Điều 19 được bảo hộ với thời hạn như sau:
+ Tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên; đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình; đối với tác phẩm khuyết danh, khi các thông tin về tác giả xuất hiện thì thời hạn bảo hộ được tính theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ;
+ Tác phẩm không thuộc loại hình quy định tại điểm a khoản 2 Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ, có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết.
Độc giả:
Trong lĩnh vực quyền tác giả, khái niệm tác phẩm khuyết danh thường gây ra nhiều tranh cãi, đặc biệt về vấn đề quyền sở hữu và sự công nhận của nó. Tác phẩm khuyết danh được định nghĩa là những tác phẩm mà danh tính của tác giả không được biết đến hoặc không được công bố.
Ai được xem là chủ sở hữu của tác phẩm khuyết danh?
Ảnh minh họa
Tác phẩm khuyết danh theo quy định tại khoản 2 Điều 3 nghị định 17/2023 là tác phẩm không có hoặc chưa có tên tác giả (tên khai sinh hoặc bút danh) trên tác phẩm khi công bố.
Luật sở hữu trí tuệ hiện hành quy định về chủ sở hữu của tác phẩm khuyết danh tại Điều 41 và Điều 42, theo đó, Nhà nước là chủ sở hữu quyền tác giả tác phẩm khuyết danh trong trường hợp tác phẩm không có tổ chức, cá nhân nào quản lý và ngoài nhà nước pháp luật còn có quy định một chủ thể khác quản lý tác phẩm khuyết danh là tổ chức, cá nhân đang quản lý tác phẩm.
Mặt khác, tổ chức cá nhân đang quản lý hoặc nhận chuyển nhượng quyền đối với tác phẩm khuyết danh được hưởng quyền của chủ sở hữu và Nhà nước sẽ là đại diện quản lý tác phẩm khuyết danh nếu không có tổ chức, cá nhân đang quản lý hoặc nhận chuyển nhượng quyền đối với tác phẩm cho đến khi danh tính của tác giả, đồng tác giả được xác định.
Việc sử dụng tác phẩm khuyết danh có cần xin phép?
Ảnh minh họa
Mặc dù danh tính tác giả của tác phẩm khuyết danh chưa được xác định, nhưng nếu tác phẩm đó đáp ứng các điều kiện pháp luật quy định, nó vẫn được bảo hộ quyền tác giả. Giống như các loại hình tác phẩm khác, quyền tác giả của tác phẩm khuyết danh phát sinh từ thời điểm tác phẩm được định hình. Thời hạn bảo hộ đối với tác phẩm khuyết danh cũng được áp dụng theo các quy định hiện hành.
Tại Điều 27 Luật sở hữu trí tuệ hiện hành quy định:
Thời hạn bảo hộ quyền tác giả
…
- Quyền nhân thân quy định tại khoản 3 Điều 19 và quyền tài sản quy định tại Điều 20 của Luật này có thời hạn bảo hộ như sau:
- a) Tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên; đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình; đối với tác phẩm khuyết danh, khi các thông tin về tác giả xuất hiện thì thời hạn bảo hộ được tính theo quy định tại điểm b khoản này;
Như vậy tác phẩm thuộc về công chúng là tác phẩm đã kết thức thời hạn bảo hộ quyền tác giả theo quy định nêu trên, cụ thể như sau:
Tổ chức hoặc cá nhân đang quản lý hoặc nhận chuyển nhượng quyền đối với tác phẩm khuyết danh sẽ được hưởng quyền của chủ sở hữu cho đến khi danh tính của tác giả hoặc đồng tác giả được xác định.
Trong trường hợp không có tổ chức hoặc cá nhân nào quản lý hoặc nhận chuyển nhượng quyền đối với tác phẩm khuyết danh, Nhà nước sẽ đại diện quản lý quyền tác giả và quyền liên quan. Nhà nước cũng sẽ hưởng quyền của chủ sở hữu cho đến khi danh tính tác giả được xác định.
Vì vậy, trong thời gian bảo hộ, các tác phẩm khuyết danh sẽ không thuộc về công chúng và sẽ được quản lý bởi tổ chức, cá nhân hoặc Nhà nước. Khi hết thời hạn bảo hộ, các tác phẩm này sẽ trở thành tài sản công cộng.
Ngoài ra theo quy định tại khoản 2 Điều 23 Nghị định 17/2023/NĐ-CP cho thấy việc quy định rõ ràng về việc quản lý tác phẩm khuyết danh được Nhà nước đại diện quản lý hoặc tổ chức, cá nhân đứng ra quản lý hoặc nhận chuyển nhượng quyền sẽ được hưởng các quyền lợi tương ứng.
Khi sử dụng tác phẩm khuyết danh, tổ chức hoặc cá nhân cần nộp hồ sơ trực tiếp hoặc thông qua dịch vụ bưu chính tới Cục Bản quyền tác giả, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sau khi đã nỗ lực tìm kiếm chủ thể quyền mà không thể tìm được hoặc không liên hệ được.
Trên thực tế hầu hết các tác phẩm khuyết danh đều thuộc thẩm quyền quản lý của Nhà nước. Vì vậy tổ chức cá nhân khi có nhu cầu sử dụng tác phẩm khuyết danh cần xin phép từ tổ chức đại diện của Nhà nước là chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm đó. Khi bị phát hiện hành vi xâm phạm các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân hoàn toàn có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật./.